“Đảnh lễ thập phương tam thế Phật, nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát!”.
Đệ tử Tuệ Đằng (Pháp danh của tôi), từ ngày phát tâm tụng đọc Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh và xưng Thánh hiệu đến nay, có sáu điều linh cảm chưa dám tỏ bày.
Gần đây có Tạ Trứ Trần lão cư sĩ ở Đài Nam phát tâm in lại cuốn “Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục”, lại thêm Trần A Nam cư sĩ gửi thư đến nhắn nhủ đem 6 điều linh cảm ghi in ra để mang lại ích lợi cho người đời. Văn Khải tôi tự biết nghiệp chướng nặng, trí huệ kém, học thức thô sơ, lại viết lách kém cỏi, không dám nhận lời. Triệu cư sĩ lại tiếp tục gửi thư đến thúc giục, nể tình không thể thoái thác được, nay đành phải viết mấy lời sơ thuật như sau:
Ngày 30 tháng 7 âm lịch năm Dân Quốc thứ 44 (1955), trong lúc mờ sáng tôi nằm mơ thấy Mẹ tôi, cầu cho được siêu độ. Sáng hôm đó tôi liền lên ngay Thiện Đạo Tự ở Đài Bắc, tham gia Địa Tạng Pháp Hội, xưng Thánh hiệu và đọc Kinh cùng mọi người.
Sau khi pháp hội viên mãn, tôi đem chuyện nằm mơ về mẹ kể cho bạn tôi nghe. Đạo hữu đó nói với tôi rằng:
– Chúng ta nếu muốn cầu siêu cho Cha Mẹ, cần phải phát nguyện đọc tụng Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh.
Tôi liền đến trước tượng Bồ Tát Địa Tạng đảnh lễ phát nguyện rằng:
“Từ hôm nay trở đi, con phát tâm tụng đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát và trì niệm Thánh hiệu. Trong một tháng đọc hết 24 quyển Kinh, trì niệm Thánh hiệu mười vạn lần, lấy công đức này hồi hướng cho Mẹ con được siêu độ”.
Thấm thoát cho đến nay, tôi tụng đọc Kinh và trì niệm Thánh hiệu đã hoàn tất, không rõ Mẹ tôi đã được siêu độ hay chưa mà đến nay vẫn chưa có cảm ứng gì?
Tôi tự biết rằng nghiệp chướng kiếp trước và kiếp này rất nặng, nếu không phát đại nguyện thì không thể được, cho nên lần thứ hai tôi lại phát đại nguyện rằng:
“Từ ngày mùng 1 tháng 9 âm lịch năm Dân Quốc thứ 44 (1955) trở đi, đến ngày 30 tháng 7 âm lịch năm Dân Quốc thứ 45 (1965), con tái phát nguyện đọc Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh 500 cuốn, mỗi ngày trì niệm Thánh hiệu 1000 lần, và thực hành những việc lành như hộ sinh và phóng sinh…”. Từ đó hàng ngày tôi luôn nhớ duy trì thời khóa không dám biếng trễ.
Trong Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh, phẩm Như Lai Tán Thán có ghi rằng: “Này Phổ Quảng người xử dụng thần lực, nếu là quyến thuộc đến trước tượng Chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này hoặc thỉnh người khác đọc ba lần hoặc bảy lần, nếu là quyến thuộc trong ác đạo, khi đọc xong không kể số lần, sẽ được giải thoát”.
Tôi lại thấy phẩm thứ 12 là Kiến Văn Lợi Ích phẩm nói rằng: “Lại nữa Quan Thế Âm Bồ Tát! như có kẻ thiện nam, người thiện nữ trong đời sau muốn cầu hiện tại, vị lai trăm nghìn ức lần lời nguyện, trăm nghìn ức lần công việc thì nên quy y chiêm lễ, phụng thờ hình tượng Địa Tạng Bồ Tát”. Lúc đó mọi nguyện cầu sẽ được toại nguyện.
Tôi đọc xong hai phẩm này lòng đau như cắt, nước mắt chảy ròng, sám hối vì mình học Phật quá muộn, đọc Kinh quá trễ. Tôi bèn phát đại nguyện lần thứ ba rằng:
– Điều thứ nhất: “Đệ tử Tuệ Đằng, thành kính đọc Kinh và tụng niệm Thánh hiệu, nguyện cầu Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát đại Từ đại Bi đại Trí đại Huệ đại Nguyện đại Lực, cứu độ đời đời kiếp trước cho Cha Mẹ của con sớm ra khỏi khổ luân hồi, kiếp này Cha Mẹ con sớm sanh Cực Lạc”.
– Điều thứ hai: “Cầu Bồ Tát Đại Sĩ gia trì cho họ, đệ Tử xin học ngôn hành của Bồ Tát, một lòng Từ Bi để giải trừ mọi ác nghiệp kiếp trước và kiếp này, tăng trưởng trí huệ, mọi việc cát tường và cầu cho hai đứa con tương lai được thuận lợi”.
Ba, bốn tháng sau, kể từ ngày phát nguyện, các sự linh ứng do Địa Tạng Bồ Tát ban ơn lần lượt hiện ra:
– Đầu tiên là tôi bị chứng bệnh ngoài da từ khi còn trẻ, nay tuổi già đã đến mà vẫn chưa khỏi, ngứa ngáy khó chịu, thuốc gì chữa cũng không hết. Từ sau khi đọc Kinh Địa Tạng thì thấy bệnh có biểu hiện khỏi dần, mặc dù không hề thuốc thang gì…
– Thứ hai là con tôi tên là Tường, sau khi ngưng buôn bán ở Hương Cảng, con dâu bị ốm luôn nên nhất quyết đến Đài Loan để tìm việc làm, thì nhận được giấy nhập cảnh, đang chuẩn bị khởi hành thì có một thương gia ở Hương Cảng thiếu người làm, nên được tuyển dụng vào làm ngay. Bệnh của con dâu cũng khỏi hẳn từ đó.
– Thứ ba là đứa con khác của tôi tên là Trạch, tốt nghiệp đại học của Hoa Kỳ về ngành điều chỉnh không khí, vừa lãnh bằng xong. Đang lúc có một công ty lớn muốn tuyển một viên chức về điều chỉnh không khí, con tôi bèn làm đơn xin việc. Khi đến thi tuyển thì được tuyển vào làm ngay. Ông giám đốc nói: “Thí sinh hơn 200 người, chỉ có mình anh đủ điều kiện”. Lại kể đến Trạch không thạo kế toán, ông giám đốc lại mướn một kế toán viên kèm cho nó 3 tháng… Sau sự việc này Trạch con tôi tự nghĩ và thầm cảm ơn hồng ân của Đại Sĩ, không biết báo đền bằng cách nào, cho nên nó phát nguyện hàng ngày đọc Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh trọn đời không ngưng.
– Điều thứ tư là con dâu tôi tốt nghiệp tại trường Đại Học Phục Đản ở Thượng Hải, vì mới khỏi bệnh nên đang ở nhà, sắp tới muốn tìm việc làm, bèn tự nguyện đọc Kinh. Thời gian sau, có một công ty ở Hương Cảng muốn tìm một thư ký. Con dâu tôi tuy muốn tìm việc nhưng chưa vội lắm, vì bệnh mới khỏi, nên đến xem thử coi sao. Đến nơi, một nhân viên trong công ty phát cho lá đơn xin việc. Con dâu tôi nhận đơn rồi viết đại thôi. Trong hơn 70 người thi xin việc thì con dâu tôi trúng tuyển. Đó không phải là Đại Sĩ gia hộ ư?Không còn nghi ngờ gì nữa.
– Điều thứ năm là ngày 17 tháng 10 năm Dân Quốc 45 (1956) tôi đọc hết 500 bộ Địa Tạng Bản Nguyện Kinh… Đến ngày 30 tháng Giêng năm 45 (1956) trong lúc đang tụng kinh tôi chợt nghĩ đến Mẹ, không biết mẹ đã được giải thoát chưa? Tôi quỳ trước bàn thờ tượng Địa Tạng Đại Sĩ, cầu nguyện rằng: “Đệ tử Tuệ Đằng, ngưỡng xin Bồ Tát chỉ bảo, Mẹ con nay đã được vãng sinh Tịnh Độ hay chưa?”.
Theo như trong Kinh Địa Tạng có dạy: “…Chí tâm tự đọc Kinh này, hay thỉnh người đọc ba biến hoặc bảy biến, nếu là quyến thuộc trong ác đạo, sau khi đọc xong mấy biến thì sẽ được giải thoát…”. Đệ tử đã đọc hết Bản Kinh 500 bộ, vẫn chưa được Đại Sĩ ban ơn, trong lòng rất hoang mang…
Đến ngày mùng 02 tháng 03, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang ngồi nghỉ trên giường, bỗng nghe tiếng Mẹ tôi gọi tôi: “Mau lại đây, mau lại đây!”.
Tôi nghe tiếng Mẹ gọi lòng rất vui mừng, hỏi lớn:
“Mẹ đã về đấy à!”.
Lúc đó lòng tôi vui sướng vô cùng, vội đứng dậy đi ra theo hướng tiếng mẹ gọi, phát hiện một dải đất phong cảnh rất đẹp, cảnh tượng như khung cảnh đẹp như Di Hòa Viên. Đường đi bằng phẳng như pha lê, sáng như gương, soi rõ một người ăn mặc như cung nữ trang phục rất đẹp, đang đứng mỉm cười. Tôi gáng nhìn rõ xem là ai, trong lòng nghĩ tất là mẹ mình, bước vội đến gần để vấn an. Khi tôi đến gần thì tất cả những cảnh đẹp đều biến mất. Chợt nhận ra, có lẽ là Mẹ mình đã được sinh Thiên, tôi vui mừng quá mà tỉnh giấc, thì ra là một giấc mơ. Tuy chỉ là một giấc mơ nhưng ñó cũng là lòng từ bi của Đại Sĩ gia hộ cho lòng được sáng tỏ. Tôi cảm kích Bồ Tát vô cùng.
Hôm sau tôi tìm gặp một vị Đại Sư, thuật lại mọi việc xảy ra trong mộng. Đại Sư nói: “Không còn nghi ngờ gì nữa, Mẹ ông đã được sinh Thiên rồi, đã tới thế giới Cực Lạc. Người đứng bên cạnh là Bồ Tát thị hiện đấy!”.
– Điều thứ sáu là gia đình tôi nay chưa có một đứa cháu, trong lòng rất buồn. Tôi nghĩ Đại Sĩ thường linh cảm ban ơn cho gia đình tôi, nên tôi lại phát nguyện cầu: Đệ tử Tuệ Đằng, cầu xin Bồ Tát ra ơn ban cho mấy đứa cháu”. Cầu nguyện này vào tháng 3 năm Dân Quốc thứ 45 (1956) đến tháng 7 năm đó được tin cháu Tường gửi thư cho cháu Trạch báo tin chị dâu đã có thai. Sau con dâu tôi sanh được đứa con trai đặt tên là Bảo Anh. Tôi được tin này mừng quá khóc hai lần. Nếu ai hỏi tại sao mà khóc? Tôi trả lời là tôi luôn luôn được Địa Tạng Bồ Tát gia hộ, ban ơn vô cùng, vô tận.
Tôi tự hỏi mình có công đức gì mà được Đại Sĩ gia hộ nhiều đến như vậy? Và để báo đền hồng ân sâu dày này, Tôi xin đời đời kiếp kiếp hết lòng quy mạng kính cẩn phụng hành, hoằng dương Phật pháp, kiêng sát giới và phóng sinh, khuyên các đồng tu và đồng đạo, đọc Địa Tạng Kinh cùng trì niệm Thánh hiệu, cùng cầu xin cho Cha Mẹ đời đời sớm thoát khỏi khổ nạn luân hồi, và cùng cầu xin cho Cha Mẹ hiện tiền, đồng tu Tịnh nghiệp, đồng sinh Tịnh Độ, đồng chứng Phật quả.
Xin kể thêm là bắt đầu từ ngày 30 tháng 7 năm 44 (1955) cho đến 28 tháng 10 năm Dân Quốc 46 (1957) đọc Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh tổng cộng lại là 1517 bộ, tụng niệm Thánh hiệu cũng chưa hề gián đoạn. Từ sau trở đi vẫn tiếp tục đọc Kinh và niệm Thánh hiệu không có kỳ hạn…
Phàm các vị đồng tu và đồng đạo hãy tin lời thuật của tôi, nên sớm phát tâm đọc Thánh Kinh và trì tụng Thánh hiệu Địa Tạng Đại Sĩ, sẽ được vô lượng vô biên công đức không thể nghĩ bàn, báo ơn Cha Mẹ đời này và đời đời kiếp kiếp về sau.
Nay Văn Khải (Tuệ Đằng) sơ thuật 6 điều linh cảm trên, đều là lời thốt ra từ đáy lòng, không dám nói lời sai.
– Lý Văn Khải kính thuật –
(Trích “Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục” – Ấn Quang Đại Sư Giám Định).